Bài báo khoa học: Cách viết phần Phương pháp

-->
Không nói ra thì có lẽ ai cũng biết rằng phương pháp là phần quan trọng nhất của một bài báo khoa học. Phần này quan trọng là vì gần 70% các bài báo bị từ chối công bố là do khiếm khuyết hay cách mô tả phần phương pháp. Nếu ví von phần kết quả là trái tim, phần bàn luận là bộ não, thì phương pháp là tay chân và xương của bài báo; xương có vững thì bài báo mới đứng vững được. Do đó, cần phải quan tâm đúng mức đến cách viết phần phương pháp nghiên cứu. 



Trong các phần của một bài báo khoa học, phần phương pháp có lẽ là dễ viết nhất. Lí do đơn giản là trước khi một nghiên cứu được thực hiện, hầu hết những chi tiết về thiết kế, chọn đối tượng, đo lường, và phân tích đều đã được trình bày trong một đề cương. Do đó, khi soạn bài báo khoa học, tác giả chỉ cần lấy những chi tiết trong đề cương để chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình thực tế. Dĩ nhiên, vẫn phải có thêm các chi tiết phát sinh trong quá trình làm nghiên cứu, và nhất là phần phân tích dữ liệu thì cần phải bổ sung cho từng bài báo riêng lẻ.

I.  Bốn nguyên tắc viết phần phương pháp

Khi viết phần phương pháp, tác giả cần phải biết đến 4 nguyên tắc chính như sau:

Nguyên tắc 1: Hợp lí nội tại và ngoại tại

Hai khía cạnh quan trọng nhất của một nghiên cứu khoa học là tính hợp lí nội tại (internal validity) và hợp lí ngoại tại (external validity). Một cách ngắn gọn, hợp lí nội tại đề cập đến các phương pháp đo lường sử dụng trong nghiên cứu. Phương pháp đo lường có độ chính xác (accuracy) và độ tin cậy cao (reliability) là yếu tố cần thiết để nâng cao giá trị khoa học của một nghiên cứu. Hợp lí ngoại tại (còn gọi là khái quát hoá) thường đề cập đến các tiêu chuẩn tuyển chọn đối tượng cho nghiên cứu. Những đặc điểm của đối tượng nghiên cứu có liên quan đến tính khái quát hóa của kết quả nghiên cứu cho một quần thể lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực tế hợp lí nội tại quan trọng hơn hợp lí ngoại tại. Nếu một nghiên cứu thiếu tính hợp lí nội tại thì kết quả cũng không có ý nghĩa hợp lí ngoại tại. Đảm bảo tính hợp lí nội tại là rất quan trọng trong bất cứ công trình nghiên cứu y học nào.

Nguyên tắc 2: Đảm bảo tái lập  

Một khía cạnh khác phân biệt khoa học thật với khoa học dỏm là tính tái lập (reproducibility). Nếu một nghiên cứu độc lập dùng phương pháp và đối tượng của một nghiên cứu trước thì kết quả cũng sẽ giống nhau; nếu kết quả không giống nhau, thì nghiên cứu trước có thể có vấn đề. Nhưng một vấn nạn ngày nay là có quá nhiều nghiên cứu không mang tính tái lập, và do đó khoa học tính trở thành một câu hỏi lớn đối với khoa học hiện đại. Điều này có ý nghĩa lớn đến cách viết phần phương pháp. Nói cách khác, tác giả phải mô tả phần phương pháp vừa đủ chi tiết sao cho người khác có thể lặp lại qui trình để có cùng kết quả.

Nguyên tắc 3: Chứng cứ  

Văn chương khoa học là văn chương chứng cứ. Đối với phần phương pháp, điều này có nghĩa là các phương pháp chưa phổ biến hay những biến số mới cần phải kèm theo tài liệu tham khảo. Một số phương pháp phân tích thống kê tương đối mới (ví dụ như bootstrap, phương pháp Bayesian Model Averaging) cần phải có tài liệu tham khảo gốc để độc giả có thể tham khảo, nếu cần thiết. Chứng cứ ở đây có khi còn có nghĩa là tác giả phải cung cấp những mã máy tính để người khác có thể lặp lại phân tích trong bài báo khoa học.

Nguyên tắc 3: Chính xác  

Về văn phong trong phần phương pháp, cũng như các phần khác là chính xác, ngắn gọn, và trong sáng. Chẳng hạn như khi mô tả phương pháp phân tích dữ liệu, tác giả phải nói rõ biến phụ thuộc là gì, biến tiên lượng và biến nhiễu là gì, cùng những thao tác trước khi đưa vào mô hình phân tích (như hoán chuyển dữ liệu, xử lí giá trị trống). Phần phương pháp phải cung cấp một cách chi tiết những gì tác giả đã làm và làm như thế nào trong công trình nghiên cứu.  Ở đây, tác giả phải cẩn thận quân bình giữa hai nhu cầu: súc tích (vì không thể mô tả tất cả các kĩ thuật với những chi tiết chi li) và đầy đủ (tác giả phải trình bày đầy đủ thông tin sao cho người đọc biết được những gì đã làm).  Đạt được sự cân đối giữa súc tích và đầy đủ là một thách thức của người viết, và có thể của cả biên tập và nhà xuất bản.

Có thể bài báo đề ra một phương pháp mới, và trong trường hợp đó, tác giả cần phải chú ý những tên gọi (và ý tưởng) xuất hiện nhiều lần trong bài báo.  Tác giả nên suy nghĩ kĩ về những tên gọi này: phải dùng chữ ngắn gọn mà dễ hiểu.  Nên gọi phương pháp điều trị là gì?  Phải sử dụng từ gì để mô tả chỉ tiêu của nghiên cứu?  Kinh nghiệm người viết bài này cho thấy trước khi viết cần phải liệt kê ra danh sách những từ hay sử dụng trong bài báo.  Không có gì lẫn lộn và khó chịu người đọc hơn là dùng nhiều từ khác nhau để gọi một hiện tượng!

II.  Viết gì trong phần phương pháp?

Trong phần phương pháp, tác giả phải trả lời cho được câu hỏi tác giả đã làm gì - What did you do?  Để trả lời câu hỏi này, tác giả phải cung cấp các thông tin thiết yếu sau đây (tôi tập trung vào các nghiên cứu lâm sàng trong y khoa):

·       Mô hình nghiên cứu (study design), địa điểm, và thời gian 
·       Qui trình nghiên cứu
·       Đối tượng nghiên cứu (participants)
·       Phương pháp thu thập dữ liệu
·       Định nghĩa biến outcome và các biến phân tích
·       Cỡ mẫu
·       Phân tích dữ liệu

Khi viết phần phương pháp, tác giả có kinh nghiệm thường dùng những tiêu đề nhỏ cho các thông tin trên. Cách cấu trúc như thế giúp cho độc giả dễ theo dõi và đối chiếu với phần kết quả. Do đó, một điều rất quan trọng là tất cả những gì trình bày trong phần kết quả thì cần phải được đề cập trong phần phương pháp. Chẳng hạn như nếu tác giả đề cập đến số người béo phì hay loãng xương trong phần kết quả, thì cần phải định nghĩa rõ thế nào là béo phì và loãng xương trong phần phương pháp.

1.  Mô hình nghiên cứu

Thông thường đây là câu văn đầu tiên mô tả thể loại hay mô hình nghiên cứu. Ở Việt Nam, nhiều người rất bận tâm với những chữ để mô tả nghiên cứu, nhưng trong thực tế, chỉ có vài mô hình phổ biến như sau:

·       nghiên cứu cắt ngang hay "thiết diện" (cross-sectional);
·       nghiên cứu bệnh chứng (case-control);
·       nghiên cứu đoàn hệ (cohort hay prospective study);
·       nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial).

Nếu công trình nghiên cứu được thiết kế như là một nghiên cứu cắt ngang, tác giả có thể viết:

"The study was designed as a cross-sectional investigation."

Nhưng đó là cách viết quá đơn giản (rất phổ biến ở Việt Nam). Không nên. Một đoạn văn phải có ít nhất là 3 câu văn. Viết quá ngắn, độc giả sẽ nghĩ tác giả không có ý tưởng hay không biết viết! Do đó, có thể thêm vài thông tin cần thiết như số bệnh nhân và cách chọn:

"The study was designed as a cross-sectional investigation, in which 210 women were randomly sampled by the cluster sampling scheme. The women aged between 20 and 85 years. The study setting was in Saigon, Vietnam." 

Cũng có những nghiên cứu không nằm trong 4 mô hình phổ biến trên đây, và tác giả phải tìm chữ thích hợp để mô tả. Chẳng hạn như một nghiên cứu về kháng thuốc trong bệnh viện, không thuộc bất cứ mô hình nào trong 4 mô hình trên, tác giả có thể viết:

"The study was conducted at ABC Hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam."

Nhưng cần phải nói thêm về bệnh viện đó:

"The Hospital is a major tertiary teaching hospital of Ho Chi Minh City, providing care to residents of South Vietnam."

Thậm chí một câu về lịch sử (để độc giả nước ngoài biết rằng đây là một bệnh viện có bề dầy lịch sử, và cũng là một cách quảng bá):

"The Hospital has a history of more than 100 years of existence, and currently has 1500 beds, but it is also constantly overloaded with patients."

và vài thông tin về qui mô của ICU:

"The Hospital has 7 intensive care units (ICU), including internal medicine, surgery, coronary events, cardiology, stroke, and neonatal care. The medical ICU (MICU) has 20 beds, with average admission being 5-7 new patients per day (i.e., about 2,500 patients a years). The surgical ICU (SICU) has 65 beds and admits about 19,000 patients a year. The stroke ICU has 6 beds and admits patients from emergency room and stable medical ICU patients. The present study had been conducted in ICUs between November, 2014 and September, 2015."

Một nghiên cứu khác được thực hiện ở Bệnh viện Cần Thơ (ít độc giả quốc tế biết), nên cần phải có một đoạn văn hơi dài:

"The study was conducted at the Can Tho National Hospital (for development cohort) and the Can Tho General Hospital (for validation cohort), Vietnam. The Can Tho National Hospital is a tertiary teaching hospital that serves 17 million residents in the Mekong Delta region; its ED on average admits 75 non-surgical patients per day. The Can Tho General Hospital has 400 beds, providing care to the residents of Can Tho City. On average, the Hospital's ED admits 50 non-surgical patients per day."


2.  Đối tượng tham gia

Đối với những công trình nghiên cứu quan trọng và qui mô, tác giả mô tả phần đối tượng tham gia nghiên cứu rất cẩn thận. Các chi tiết về tuổi, giới tính, tiêu chuẩn chọn và tiêu chuẩn loại trừ đều được mô tả kĩ, vì đây là phần có liên quan đến hợp lí ngoại tại. Ví dụ như công trình về thuốc denosumab (Cummings et al NEJM 2009), tác giả mô tả những phụ nữ được tuyển chọn vào nghiên cứu như sau:

"Women between the ages of 60 and 90 years with a bone mineral density T score of less than −2.5 at the lumbar spine or total hip were eligible for inclusion. Women were excluded if they had conditions that influence bone metabolism or had taken oral bisphosphonates for more than 3 years. If they had taken bisphosphonates for less than 3 years, they were eligible after 12 months without treatment. Women were also excluded if they had used intravenous bisphosphonates, fluoride, or strontium for osteoporosis within the past 5 years; or parathyroid hormone or its derivatives, corticosteroids, systemic hormone-replacement therapy, selective estrogen-receptor modulators, or tibolone, calcitonin, or calcitriol within 6 weeks before study enrollment."

Nghiên cứu ở Cần Thơ mô tả các tiêu chuẩn tuyển chọn và loại trừ nghiên cứu một cách chi tiết:

"We had enrolled medical patients (non-trauma and non-surgical) from the two emergency departments between 13 March 2013 and 31 March 2014. The inclusion criteria were: all patients aged 16 years and older and who could give informed consent. Patients were excluded from the study if they had one of the following conditions: acute coronary syndrome, burns, cardiac arrest before admitting to the hospital or which occurred in the ED with failure of cardiopulmonary resuscitation, snakebite, insect bite or sting, poisoning (drugs, alcohol, intoxication, paraquat, insecticides, rodenticides, corrosive substances). We also excluded patients with burns, cardiac arrest with failure of cardiopulmonary resuscitation because these patients were deemed to be at high risk of mortality. Women in labor or patients dead on arrival were also excluded from the study. The study protocol and procedure were approved by the Can Tho National Hospital ethics committee."

và một câu văn về y đức:

"All patients gave written informed consent. Patients could withdraw from the study at any time without giving reasons."

3.  Địa điểm và bối cảnh nghiên cứu (setting). 

Có nghiên cứu cung cấp thông tin về địa điểm mà công trình nghiên cứu được thực hiện, hay nơi mà dữ liệu được thu thập, bởi vì địa điểm có thể ảnh hưởng đến tính hợp lí ngoại tại của kết quả nghiên cứu.  Chẳng hạn như khi làm nghiên cứu về vitamin D, tác giả cần phải cung cấp thông tin về thành phố mà mình thực hiện công trình nghiên cứu:

"The study was designed as a cross-sectional investigation, in which the setting was Ho Chi Minh City (formerly Saigon).  The City is located at 10°45'N, 106°40'E in the southeastern region of Vietnam.  The City is in the tropic and close to the sea; therefore it has a tropical climate, with an average humidity of 75%.  There are only two distinct seasons: the rainy season, with an average rainfall of about 1,800 millimetres annually (about 150 rainy days per year), usually begins in May and ends in late November; the dry season lasts from December to April. The average temperature is 28°C (82°F), the highest temperature sometimes reaches 39°C (102°F) around noon in late April, while the lowest may fall below 16°C (61°F) in the early mornings of late December."

4.  Qui trình nghiên cứu(Procedures)

Trong phần này, tác giả phải tóm lược từng bước nghiên cứu, kể cả những chỉ dẫn cho đối tượng nghiên cứu như thế nào.  Việc phân nhóm trong nghiên cứu, chi tiết về can thiệp hay điều trị (nếu có).  Nếu công trình có liên quan đến ngẫu nhiên hóa, tác giả cần phải mô tả cụ thể qui trình ngẫu nhiên hóa (randomization) như thế nào, kĩ thuật gì đã được sử dụng để đảm bảo các nhóm cân đối, v.v.

Ví dụ:  "All patients who met inclusion and exclusion criteria were invited to participate in the study. Upon giving the written informed consent, data collection was conducted by a trained research worker by using a structured questionnaire. The questionnaire collected data concerning demographic data, medical history, physiological data, haematological and biochemical tests (see Supplementary Table S1online). After 30 days from admission, the research worker would contact the patient or relative or guardian to obtain information on survival status. Patients who had stayed in hospital for more than 30 days were considered “censored."

Đối với nghiên cứu có xét nghiệm, tác giả phải mô tả chi tiết về cách thu thập sinh phẩm và xử lí ban đầu. Ví dụ:

"All specimens were collected at the bed-side, and then transferred to the microbiology laboratory immediately for inoculation on proper culture media within 2 hours. Sample collection was collected from all patients by bedside bronchoscopy procedure. A 600 mm length and 50 mm view depth fiberscope (PortaView LF-TP; Olympus Optical Co. Ltd, Tokyo, Japan) was attached to a video camera (Olympus, Tokyo, Japan) and focus with white balance was manipulated until optimum view was achieved. The fiberscope was lubricated with sterile xylocaine jelly 2% (AstraZeneca, Sweden). Midazolam and fentanyl and/or xusamethonium were used in sedation. The fiberscope was then introduced until 2 cm above the carina, where the tube was railroaded into the trachea under vision. Between 2 and 5 ml of bronchoalveolar lavage (BAL) fluid was collected. Samples were then transferred to the microbiology department within 30 minutes after collection for analysis."

Ngoài ra, tác giả phải mô tả cẩn thận kĩ thuật đo lường được sử dụng trong nghiên cứu, như tên của máy, model gì, software phiên bản nào, và nơi sản xuất.  Cần phải mô tả điều kiện (nhiệt độ, ánh sáng) trong khi đo lường, cũng như các hệ số về độ tin cậy và độ chính xác của kĩ thuật đo lường.

Ví dụ: "Blood pressure (diastolic phase 5) while patient was sitting and had rested for at least five minutes was measured by a trained nurse with a Copal UA-251 or a Takeda UA-751 electronic ausculatory blood pressure reading machine (Andrew Stephens, Brighouse, West Yorkshire) or with a Hawksley random zero sphygmomanometer (Hawksley, Lancing, Sussex) in patients with atrial fibrillation.  The first reading was discarded and the mean of the next three consecutive readings with a coefficient of variation below 15% was used in the study, with additional readings if required."

5.  Định nghĩa chỉ tiêu lâm sàng

Một công trình nghiên cứu lâm sàng phải có một outcome, mà tôi tạm dịch là “chỉ tiêu lâm sàng”, là một đại lượng dùng làm thước đo của một thuật can thiệp.  Do đó, tác giả cẩn phải định nghĩa rõ ràng chỉ tiêu lâm sàng của công trình nghiên cứu là gì, và nhất là phương pháp đo lường (như vừa đề cập) ra sao.  Thông thường, một nghiên cứu có 2 chỉ tiêu lâm sàng mà tiếng Anh gọi là “primary endpoint” (chỉ tiêu chính) và “secondary endpoint” (chỉ tiêu phụ).

Ví dụ:  "The primary outcome of the study was mortality within 30 days since the day of admission to the hospital. Mortality was defined as (1) death in hospital from any cause; (2) family-initiated discharge and death either on the way home or within 24 hrs after discharge; (3) doctor-initiated discharge and death at home. It should be noted that in Vietnamese culture, when a patient was in the end stage of disease, the patient or family often requests for discharge from hospital because they prefer to pass away at home."

Nên nhớ rằng ở phần này tác giả chỉ mô tả những biến có liên quan đến bài báo, chứ không phải mô tả tất cả những biến đã được thu thập trong công trình nghiên cứu.  Chẳng hạn như nếu bài báo chỉ nói về mật độ xương, thì tác giả không cần phải nói đến gãy xương (vì hai biến này rất khác nhau).  Nguyên tắc là: chỉ mô tả những gì có liên quan đến phần kết quả.

6.  Cỡ mẫu

Cỡ mẫu là một yếu tố rất quan trọng trong một nghiên cứu lâm sàng.  Thông thường, các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (RCT) phải có một câu văn mô tả cách tính cỡ mẫu.  Không phải viết ra những công thức tính toán (như hay thấy trong nhiều bài báo ở Việt Nam), mà là những giả định đằng sau cách tính.  Điều này quan trọng, vì qua giả định, người đọc có thể đánh giá khả năng mà công trình nghiên cứu có thể giải quyết câu hỏi đặt ra trong phần dẫn nhập.

Ví dụ:  "We consider that the incidence of symptomatic deep venous thrombosis or pulmonary embolism or death would be 4% in the placebo group and 1.5% in the ardeparin sodium group.  Based on 0.9 power to detect a significant difference (p  0.05, two-sided), 976 patients were required for each study group.  To compensate for nonevaluable patients, we planned to enroll 1000 patients in each group."


7.  Ngẫu nhiên hóa 

Trong các công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial hay RCT), bệnh nhân thường được phân nhóm một cách ngẫu nhiên.  Có nhiều cách phân nhóm bằng máy tính và thuật toán, cho nên tác giả có trách nhiệm phải mô tả rõ phương pháp phân nhóm để người đọc có thế đánh giá chất lượng của nghiên cứu.  Nếu cách phân nhóm có hiệu quả thì kết quả thường cho thấy các nhóm rất tương đương về các đặc tính lâm sàng.  Một ví dụ về cách mô tả phương pháp phân nhóm có thể thấy trong đoạn văn sau đây:

"Women had an equal probability of assignment to the groups.  The randomization code was developed using a computer random number generator to select random permuted blocks.  The block lengths were 4, 8, and 10 varied randomly."

Mật hóa (còn gọi là Blinding).  Trong các công trình RCT, có khi cả bác sĩ điều trị và bệnh nhân đều không biết bệnh nhân mình (hay mình) nằm trong nhóm nào của nghiên cứu.  Đây là một biện pháp nhằm tăng tính khách quan khi đánh giá hiệu quả của can thiệp.  Cũng như ngẫu nhiên hóa có thể thực hiện bằng nhiều thuật toán, cách mật hóa cũng có thể thực hiện bằng nhiều “thủ thuật”.  Cách mô tả thủ thuật đó có thể tìm thấy trong đoạn văn sau đây: 

"All study personnel and participants were blinded to treatment assignment for the duration of the study.  Only the study statisticians and the data monitoring committee saw unblinded data but none had any contact with study participants."

8.  Phân tích dữ liệu

Thiết kế và phân tích các nghiên cứu lâm sàng đều cần đến các phương pháp thống kê.  Do đó, phần này tuy là phần cuối trong phần phương pháp của bài báo khoa học, nhưng có thể đóng vai trò rất quan trọng.  Rất nhiều bài báo và công trình nghiên cứu rất tốt nhưng vì phân tích sai nên đành phải từ chối.  Con số bài báo bị từ chối vì phân tích sai có khi lên đến 50% (như với tập san JAMA chẳng hạn).  Do đó, trong phần phân tích, tác giả phải phát biểu cho được biến phụ thuộc (hay endpoints hoặc outcome) là gì, biến độc lập (hay risk factors hoặc covariates) là gì, và định nghĩa rõ ràng các biến này được xử lí ra sao.  Nếu số liệu đã qua hoán chuyển thì tác giả phải giải thích tại sao.  Vì có nhiều phương pháp phân tích số liệu và kiểm định giả thuyết, nên tác giả còn phải giải thích tại sao đã chọn phương pháp A mà không là phương pháp B.  Đôi khi tác giả cũng phải nói ra đã dùng phần mềm nào cho phân tích. 

Ví dụ về  cách viết đoạn văn này như sau: "All data analysis was carried out according to a pre-established analysis plan. Proportions were compared by using Chi-squared tests with continuity correction or Fisher's exact test when appropriate.  Multivariate analyses were conducted with logistic regression.  The durations of episodes and signs of disease were compared by using proportional hazards regression.  Mean serum retinol concentrations were compared by t-test and analysis of covariance ...  Two-sided significance tests were used throughout. The analysis was performed with the R statistical language."

Đối với một nghiên cứu RCT, phần này có khi cần phải mô tả chi tiết hơn (Cummings et al NEJM 2009):

"Analyses of efficacy were based on the intention-to-treat principle. To adjust for multiplicity and maintain the overall significance level at 0.05, the primary end point of new vertebral fracture was required to achieve significance before the next end points in the sequence (nonvertebral fracture and hip fracture) could be tested. Analyses regarding vertebral fractures included all subjects who had at least one follow-up radiograph.

The effect of treatment on the risk of new vertebral fracture was analyzed with the use of a logistic-regression model with adjustment for age strata. An age-stratified Cox proportional-hazards model was used to compare the two study groups for the secondary end points. Score tests were used to calculate P values in each model.14,15 Subjects who were lost to follow-up or withdrew before having a fracture event had their last known fracture status carried forward. Radiographically defined vertebral fractures were analyzed by cumulative incidence and secondary end points by time-to-event analysis with the use of Kaplan–Meier methods. The absolute risk reduction between study groups was computed as the difference in incidence at 36 months for the primary end point and the difference in the Kaplan–Meier estimates at 36 months for the secondary end points with the use of a weighted average across the age strata. Analyses of changes in bone mineral density included all subjects who had at least one follow-up measurement at or before the time point under consideration. Missing values were imputed by carrying forward the last observation."


Nói chung, phần hương pháp thường dài gấp 2 hay 3 lần phần Dẫn nhập. Sẽ không có vấn đề gì nếu tác giả mô tả phần Phương pháp một cách chi tiết, vì nếu tập san thấy không cần thiết thì họ sẽ cắt bỏ hay đưa vào phần phụ chú (appendix).  Nhưng sẽ là vấn đề nếu tác giả cố tình mô tả phần Phương pháp một cách mù mờ và vắn tắt, bởi vì người duyệt bài sẽ nghĩ tác giả hoặc là muốn giấu chi tiết, hoặc là thiếu thành thật! Mô tả chi tiết ở mức độ sao cho đồng nghiệp có thể lặp lại nghiên cứu và có kết quả tương đương. 

Kinh nghiệm tôi cho thấy những sai sót phổ biến trong cách viết phần phương pháp là:

·       Viết như là những chỉ dẫn (giống như viết powerpoint);
·       Nhầm lẫn giữa phương pháp và kết quả;
·       Bỏ qua phần giải thích phương pháp;
·       Những biến số đề cập trong kết quả mà không mô tả trong phần phương pháp;
·       Trình bày những thông tin không liên quan đến bài báo hay phần kết quả.

Xin nhắc lại rằng hơn 70% bài báo khoa học bị từ chối là do phương pháp không đúng hay mô tả không đầy đủ.  Vì thế, tác giả cần phải hết sức thận trọng trong phần mô tả Phương pháp nghiên cứu.  Viết về công trình nghiên cứu được thực hiện như thế nào cũng quan trọng như thực hiện nghiên cứu.  Những điểm cần nói lên cho được trong phần phương pháp là:
·       Đã làm những gì
·       Làm như thế nào
·       Dữ liệu được thu thập ra sao
·       Dữ liệu được phân tích như thế nào

Những thông tin và chi tiết trong phần Phương pháp cũng là một cách phát biểu về khả năng và trình độ kĩ thuật - công nghệ của tác giả. Người trong ngành chỉ cần đọc qua vài đoạn văn là có thể biết được giá trị khoa học của công trình nghiên cứu. Do đó, có thể nói rằng phần Phương pháp cũng là một cách phát biểu về uy tín của tác giả, và sự hiểu ngầm này đòi hỏi tác giả phải hết sức thận trọng trong việc cung cấp những thông tin và chi tiết một cách chuyên nghiệp. 

Bài báo khoa học: Cách viết phần Dẫn nhập

Đối với đa số nghiên cứu sinh, viết phần Dẫn nhập (Introduction) của một bài báo khoa học là một việc … đau đầu. Viết câu gì trước có khi tốn cả giờ đồng hồ, thậm chí cả ngày, mà nghĩ không ra. Nhưng viết được câu đầu rồi, thì nội dung phần Dẫn nhập phải như thế nào để thu hút người đọc lại là một vấn đề khác lớn hơn và khó hơn. Trong cái note này tôi sẽ chia sẻ cùng các bạn cách viết phần Dẫn nhập, kèm theo những câu văn cụ thể để các bạn có thể mô phỏng theo.



Một bài báo khoa học thường được cấu trúc theo công thức IMRaD. IIntroduction, tức là dẫn nhập. MMethods, tức phương pháp. RResults, kết quả. DDiscussion, bàn luận. Phần Dẫn nhập là quan trọng, bởi vì nó dàn dựng bối cảnh cho công trình nghiên cứu. Người đọc đánh giá tầm quan trọng của nghiên cứu qua phần Dẫn nhập. Do đó, trong phần này, bạn phải trả lời cho được câu hỏi "Tại sao tôi thực hiện nghiên cứu này?"

Để trả lời câu hỏi đó (tại sao có nghiên cứu này), bạn cần phải nói theo ngôn ngữ "giang hồ" là tạo cho mình một "lãnh địa", viết tắt là CaRS (creating a research space). Để tạo cho mình một lãnh địa hay để biện minh cho nghiên cứu mình sắp báo cáo, người viết cần phải chia phần Dẫn nhập thành 3 phần nhỏ:

·       phần thứ nhất là tạo ra một tình thế; 
·       phần thứ hai là tạo ra một cái "niche", hay nói đúng hơn là một vấn đề; và
·       phần thứ ba là chiếm cái nice đó.

1.  Tạo tình thế

Để tạo tình thế, người viết phải phát biểu cho được vấn đề lớn hiện nay là gì, tầm quan trọng của vấn đề, và tình trạng kiến thức hiện nay ra sao. Chẳng hạn như nếu tác giả nghiên cứu về gen loãng xương, tác giả phải vào bài nói về loãng xương và hệ quả của nó lớn như thế nào bằng cách dùng các con số thống kê về prevalence và incidence. Để nói về tầm quan trọng của bệnh, tác giả có thể "doạ" người đọc rằng bệnh này có thể làm cho bệnh nhân giảm tuổi thọ như ung thư vậy. (Nếu nói gãy xương làm giảm tuổi thọ, có khi người ta không "sợ"; phải so sánh với ung thư thì may ra người ta mới sợ). Sau đó, tác giả sẽ viết về những kiến thức hiện hành, như những gen đã được khám phá và vai trò của chúng trong việc giúp chúng ta hiểu hơn về bệnh lí loãng xương.

Trong phần này (tạo tình thế), tác giả có thể sử dụng những câu văn quen thuộc (không phải đạo văn như có người lầm tưởng) hay được dùng trong y văn. Những câu văn nói về tầm quan trọng của vấn đề:

·       X is the main / leading / primary / major cause of ..
·       Xs are a common / useful / critical part of…
·       Xs are among the most widely used / commonly discussed / well-known / well-documented/ widespread / commonly investigated types of …
·       X is recognized as being / believed to be / widely considered to be the most important …
·       It is well known / generally accepted / common knowledge that X is …
·       X is increasingly becoming / set to become a vital factor in …
·       Xs are undergoing a revolution / generating considerable interest in terms of …
·       Xs are attracting considerable / increasing / widespread interest due to …
·       X has many uses / roles / applications in the field of …
·       A striking / useful / remarkable feature of …
·       The main / principal / fundamental characteristics of X are

2.  Tạo ra cái niche

Đến phần thứ hai của Dẫn nhập, tác giả phải tạo ra một lãnh địa cho mình. Ở đây, tác giả phải nói chỉ ra khoảng trống của kiến thức. Phần trên là chỉ ra kiến thức hiện hành, còn phần này là chỉ ra phần cần phải làm thêm. Cái gọi là "khoảng trống tri thức" (gap in knowledge) có thể là hiểu biết hiện nay chưa đầy đủ, là những quan điểm còn đối nghịch và trong vòng tranh cãi, là những câu hỏi mới nảy sinh.

Quay lại ví dụ về nghiên cứu gen loãng xương, tác giả có thể biện luận rằng những gen trước đây được khám phá chỉ giải thích 5% sự khác biệt giữa các bệnh nhân về xu hướng mắc bệnh. Do đó, vấn đề đặt ra là còn gen nào khác, và đây chính là vấn đề cần phải quan tâm. Nếu là một công trình phân tích tổng hợp (meta-analysis), tác giả có thể biện minh rằng câu hỏi beta-blockers có ảnh hưởng gì đến gãy xương hay không vẫn còn trong vòng tranh cãi, vì các nghiên cứu trước đây dựa trên cỡ mẫu hơi nhỏ, và do đó, một phân tích tổng hợp có thể góp phần giải quyết những tranh cãi đó. Nói tóm lại, đây là phần quan trọng, bởi vì tác giả phải thuyết phục rằng nghiên cứu của mình có lí do tồn tại và có ý nghĩa.

Những câu văn thường hay được sử dụng trong phần tạo ra một lãnh địa cho mình là:

·       The research has focused on A, rather than B
·       Research into A can be useful, but to counterbalance X, it is important to consider B
·       These studies have emphasized A, as opposite to B
·       While prior studies have examined A, it ay be preferable to contemplate the impact of B
·       Although considerable research has been devoted to A, less attention has been paird to B 
·       Few researchers have addressed the problem / issue / question of …
·       Previous work has only focused on / been limited to / failed to address …
·       A basic / common / fundamental / crucial / major issue of …
·       The central / core problem of
·       A challenging / An intriguing / An important / A neglected area in the field of …
·       Current solutions to X are inconsistent / inadequate / incorrect / ineffective / inefficient / over-simplistic / unsatisfactory
·       Many hypotheses regarding X appear to be ill-defined / unfounded / not well grounded / unsupported / questionable / disputable / debatable
·       The characteristics of X are not well understood / are misunderstood / have not been dealt with in depth.
·       It is not yet known / has not yet been established whether X can do Y.
·       X is still poorly / not widely understood.

3.  Chiếm cái niche

Sau khi đã tạo ra một lãnh địa, bước kế tiếp là phải "chiếm" lấy lãnh địa đó. Cách chiếm lãnh địa ở đây phát biểu cho được giả thuyết khoa học, và từ giả thuyết, tác giả phải phát biểu mục tiêu nghiên cứu. Mỗi giả thuyết có thể có hơn một mục tiêu nghiên cứu. Trong khoa học xã hội, người ta còn viết về cấu trúc của bài báo trong phần này, thậm chí có người tóm lược những phát hiện chính trong phần "chiếm lãnh địa" nghiên cứu. Tuy nhiên, nói gì thì nói, phần sau cùng của phần Dẫn nhập phải phát biểu cho được những mục tiêu nghiên cứu; không phát biểu được mục tiêu nghiên cứu là rất dở, phản ảnh sự thất bại của tác giả.

Những câu văn quen thuộc có thể dùng để phát biểu về mục tiêu nghiên cứu như sau:

·       This paper outlines / proposes / describes / presents a new approach to …
·       This paper examines / seeks to address / focuses on / discusses / investigates how to solve …
·       This paper is an overview of / a review of / a report on / a preliminary attempt to …
·       The present paper aims to validate / call into question / Yang’s findings regarding ...
·       X is presented / described / analyzed / computed / investigated / examined / introduced / discussed in order to …
·       The aim of our work / research / study / analysis was to further / extend / widen / broaden current knowledge of …
·       Our knowledge of X is largely based on very limited data. The aim of the research was thus / therefore / consequently to
·       The aim of this study is to study / evaluate / validate / determine / examine / analyze / calculate / estimate / formulate …
·       This paper calls into question / takes a new look at / re-examines / revisits / sheds new light on …

4.  Công thức 3C

Cách viết trong phần Dẫn nhập là phải từng bước một và dùng công thức "3C". Từng bước ở đây có nghĩa là đi từ cái đã biết đến cái chưa biết, và sau cùng là mục tiêu nghiên cứu. Phần này chủ yếu dùng động từ thì quá khứ (past tense).

Công thức 3C (Citation + Critique + Constructive), tức là có trích dẫn + phê bình + và tính xây dựng. Một phát biểu quan trọng mang tính ý tưởng hay có hàm chứa con số (dữ liệu) cần phải có citation, tức là trích dẫn. Trích dẫn từ những bài báo mà tác giả từ nhóm có uy tín và được công bố trên tập san có uy tín. Tuyệt đối tránh trích dẫn những bài báo từ các tập san dỏm (predatory journals). Tác giả không cần phải điểm qua những thông tin hay y văn quá cổ xưa, mà chỉ tập trung vào những nghiên cứu trong vòng 5 năm qua, hay cao lắm là 10 năm. Nếu được, tránh trích dẫn những nguồn chưa qua bình duyệt (như các tập san bên Việt Nam).

Trong phần tạo ra cái niche hay lãnh địa cho mình, có khi tác giả phải điểm qua các nghiên cứu trước và có khi phê bình. Nhưng ở đây cần phải học cách phê bình có văn hoá, chứ không phải cách phê bình kiểu Việt Nam (tức thô lỗ). Phê bình có văn hoá có nghĩa là có chứng cứ từ các nguồn tập san đáng tin cậy, và tác giả không bao giờ nói người khác là "wrong" hay sai. Cần phải tỏ ra, nếu phê bình, tính xây dựng chứ không chỉ trích và đánh phá. Cách nhẹ nhàng nhất là chỉ ra một cách diễn giải khác cho tác giả gốc, hay chỉ ra những nghiên cứu sau này không thể lặp lại kết quả của nghiên cứu trước. Đây là phần rất tế nhị, nên tác giả cần phải tỏ ra là người có văn hoá khoa học. Tuyệt đối không lên giọng giảng dạy người khác trong phần Dẫn nhập.

Đối với các bài báo y khoa, phần Dẫn nhập không nên viết quá dài. Viết dài quá người ta nghĩ mình "nhiều chuyện"; viết ít quá người ta nghĩ mình "không có ý tưởng" hay lười biếng đọc! Thường chỉ 2 trang A4 (double space) là đủ. Thông thường, người có kinh nghiệm viết phần Dẫn nhập sau khi đã viết phần Kết quả và Bàn luận.

Tóm lại, phần Dẫn nhập phải trả lời câu hỏi "Tại sao tôi thực hiện nghiên cứu này?" Phần này viết theo mô hình CaRS. Theo mô hình này và để trả lời câu hỏi đó, tác phải phải thuyết phục vấn đề mình quan tâm là quan trọng, nhưng vẫn còn vài khoảng trống về kiến thức (tạo cho mình một lãnh địa), và mục tiêu nghiên cứu (chiếm lấy lãnh địa). Nên nhớ rằng phần Dẫn nhập đi từ cái chung (bối cảnh nghiên cứu) đến cái riêng (mục tiêu nghiên cứu); còn phần Bàn luận đi từ cái riêng đến cái chung.

5.  Ví dụ

Dưới đây là một nghiên cứu nhằm xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Á châu.

[Vào đầu, tác giả phát biểu về tầm quan trọng của béo phì và vài câu văn "doạ"] Although obesity is recognized as a global public health problem, the extent of obesity is a matter of contention, due largely to a lack of consensus regarding definition.

[Giải thích vấn đề chẩn đoán hiện nay] Clinically, obesity is defined as a condition characterized by excessive body fat to the extent that it is harmful to well being and health (1). Currently, the operational definition of obesity is based on body mass index (BMI). According to the World Health Organization criteria, any individual whose BMI is greater than or equal to 30 kg/m2 is considered obese (2).

[Nhưng đó là cách làm không tốt] Although BMI is widely used in the diagnosis of obesity, it has been criticized, because it does not distinguish between fat mass, muscle mass, bone and vital organs (3-8).

[Tại sao mỡ quan trọng?] It has been argued that a better classification of obesity should be based on percent body fat (PBF), in which any woman whose PBF >35% and any man whose PBF >25% is considered obese (9).

[Kiến thức hiện hành] Using the relationship between BMI and PBF, it has been suggested that in Asian populations, a BMI greater or equal to 25 should be classified as obese (10), because a BMI of 25 kg/m2 is assumed to correspond to about 25% and 35% body fat for Asian men and women, respectively (9).

[Tạo cho mình một lãnh địa] This classification is based on the assumption that for a given BMI, Asians have greater PBF than Caucasians (11, 12). However, a close examination of the data on which this assumption is based on (12) reveals little difference in PBF between Chinese in New York and Caucasian women.

[Mục tiêu nghiên cứu] In this paper, we examine the validity of this assumption by comparing PBF between White American women of European ancestry and Vietnamese women living in Vietnam.

Cuối cùng "ráp" lại thì sẽ có phần Dẫn nhập như sau:

Although obesity is recognized as a global public health problem, the extent of obesity is a matter of contention, due largely to a lack of consensus regarding definition. Clinically, obesity is defined as a condition characterized by excessive body fat to the extent that it is harmful to well being and health (1). Currently, the operational definition of obesity is based on body mass index (BMI). According to the World Health Organization criteria, any individual whose BMI is greater than or equal to 30 kg/m2 is considered obese (2). Although BMI is widely used in the diagnosis of obesity, it has been criticized, because it does not distinguish between fat mass, muscle mass, bone and vital organs (3-8).
It has been argued that a better classification of obesity should be based on percent body fat (PBF), in which any woman whose PBF >35% and any man whose PBF >25% is considered obese (9). Using the relationship between BMI and PBF, it has been suggested that in Asian populations, a BMI greater or equal to 25 should be classified as obese (10), because a BMI of 25 kg/m2 is assumed to correspond to about 25% and 35% body fat for Asian men and women, respectively (9). This classification is based on the assumption that for a given BMI, Asians have greater PBF than Caucasians (11, 12). However, a close examination of the data on which this assumption is based on (12) reveals little difference in PBF between Chinese in New York and Caucasian women. In this paper, we examine the validity of this assumption by comparing PBF between White American women of European ancestry and Vietnamese women living in Vietnam.

Dịch vụ SEO

Dịch vụ Thiết kế websiteDịch vụ seo CIP giúp cho thương hiệu của bạn tiếp cận thị trường online.